CÁC PHÒNG CÁC KHOA
Liên kết |
THUỐC CHỐNG LOẠN THẦN, XỬ TRÍ CÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN15:51:00 28/03/2018
Đại cương Loạn thần hay rối loạn tâm thần là thuật ngữ chỉ tình trạng các chức năng tâm lý – trí tuệ của một cá nhân bị suy giảm và/ hoặc biến đổi gây ảnh hưởng tới các hành vi và cách ứng xử của người đó trong môi trường gia đình và xã hội. Rối loạn tâm thần xảy ra do nhiều yếu tố nguyên nhân khác nhau, từ bên ngoài hoặc bên trong, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới cơ thể và hệ thần kinh. Hậu quả là các quá trình chức năng như cảm giác, ý thức, trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ và cả tính tình tác phong của người bệnh có thể bị sai lệch, không phù hợp với thực tại khánh quan làm cho người bệnh khó hòa nhập với môi trường xã hội. Có nhiều biểu hiện và bệnh cảnh lâm sàng khác nhau của các rối loạn tâm thần đã được nêu trong Phân loại bệnh quốc tế lần thứ X (ICD-X); các Tiêu chuẩn chẩn đoán trình bày trong sách Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn Tâm thần lần thứ IV của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ (DSM-IV) cũng được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Việc sử dụng các chất tác động tâm trí để điều trị các rối loạn tâm thần đã được biết đến từ xa xưa. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và sự ra đời của nhiều thuốc mới, Dược lý Tâm thần học ngày càng đóng vai trò quan trọng trong xử trí các biểu hiện bệnh lý tâm thần. Hiện nay bốn loại thuốc chủ yếu thường được sử dụng trong lâm sàng là: Thuốc chống trầm cảm, thuốc giải lo âu, thuốc điều hòa khí sắc và thuốc chống loạn thần. Nói chung, ngoài hiệu lực giải quyết được các biểu hiện phức tạp của các rối loạn tâm thần, các thuốc trên đều có một số tác dụng phụ không mong muốn. Phạm vi nội dung của chuyên luận này đề cập đến việc xử trí các tác dụng không mong muốn của các thuốc chống loạn thần. Phân loại thuốc chống loạn thần Có hai loại thuốc loạn thần: Thuốc chống loạn thần điển hình (thuốc chống loạn thần thế hệ thứ nhất). Thuốc chống loạn thần không điển hình (thuốc chống loạn thần thế hệ hai). Các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ nhất có tác dụng chủ yếu là chẹn các thụ thể dopamin D2 và có tác dụng không chọn lọc đối với bất cứ bốn thụ thể D1, D3, D4, D5 và do đó có thể gây các tác dụng không mong muốn, đặc biệt là các triệu chứng ngoại tháp và làm tăng prolactin máu. Thuốc chống loạn thần thế hệ thứ nhất Các thuốc chống loạn thần, điển hình là clorpromazin, dẫn xuất của phenothiazin còn được gọi là “các thuốc an thần kinh” (neuroleptics) hoặc “các thuốc bình thần chủ yếu” (major tranquillisers). Nói chung các thuốc này thường làm cho người bệnh trở nên bình tĩnh nhưng không làm suy giảm ý thức và không gây kích thích nghịch đảo. Trong lâm sàng các thuốc chống loạn thần được sử dụng để trấn tĩnh người bệnh kích động do bất kỳ bệnh lý tâm thần nào như tâm thần phân liệt, hưng cảm, tổ thương não, sảng nhiễm độc hoặc kích động trầm cảm. Có thể chia ra ba nhóm chính: Nhóm 1: Clorpromazin, levomepromazin và promazin có tác dụng an thần mạnh, còn các tác dụng thứ phát kháng muscarin và ngoại tháp vừa phải. Nhóm 2: Pericyazin và pipotiazin có tác dụng an thần vừa phải, tác dụng kháng muscarin rõ, còn tác dụng ngoại tháp ít hơn nhóm 1 và 3. Nhóm 3: Fluphenazin, perphenazin, proclorperazin và trifluoperazin có đặc tính chung là ít tác dụng an thần và kháng muscarin hơn nhưng tác dụng phụ ngoại tháp mạnh hơn nhóm 1 và 2. Bên cạnh ba nhóm trên còn có các thuốc thuộc nhóm hóa học khác thường giống các phenothiazin nhóm 3 về tính chất tác động lâm sàng bao gồm: Các butyrophenon (benperidol và haloperidol), diphenylbutylpiperidin (pimozid), thixanthen (flupentixol và zuclopenthixol) và benzamid (sulpirid). Thuốc chống loạn thần thế hệ hai Các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai tác động đến nhiều thụ thể hơn so với thế hệ thứ nhất và tác động lâm sàng có nét khác hơn, đặc biệt là các tác động không mong muốn. Amisulpirid có tác dụng đối kháng chọn lọc đối với thụ thể D2, D3. Aripiprazol là một chủ vận một phần D2, một phần yếu tố 5-HT1a và đối kháng thụ thể 5-HT2a. Thuốc này có thể gây nôn và làm giảm prolactin máu. Clozapin là một thuốc đối kháng thụ thể D1, D2 5-HT2a, alpha1 và muscarin. Olanzapin đối kháng thụ thể D1, D2, D4, 5-HT2a, histamin H1 và muscarin. Paliperidon là một chất chuyển hóa của risperidon. Quetiapin là một thuốc đối kháng thụ thể D1, D2, 5-HT2a, alpha1 và histamin H1. Risperidon đối kháng thụ thể D2, 5-HT2a, alpha1 và histamin H1 Các tác dụng không mong muốn: Là những phản ứng xảy ra ở người bệnh trong quá trình được điều trị. Đây là những vấn đề thường gặp trong lâm sàng đặc biệt ở những người bệnh được xử dụng đồng thời nhiều loại thuốc. Có nhiều yếu tố nguyên nhân khác nhau cũng như có thể liên quan đến nhiều cơ chế bệnh sinh cần được xem xét: Từ cấu trúc hóa học của dược chất, tác dụng và liều lượng thuốc đến tương tác của các thuốc; trừ cơ địa, phản ứng đặc ứng đến vai trò của di truyền dị ứng ở từng người bệnh. Đối với các thuốc chống loạn thần, các tác dụng không mong muốn có nhiều biểu hiện lâm sàng khác nhau bao gồm: Toàn thân: Sốt quá cao. Nội tiết: Tăng tiết sữa, mất kinh, vú to nam giới, rối loạn chức năng tuyến giáp, rối loạn tình dục, tăng prolactin huyết. Chuyển hóa: Ăn nhiều. Ngoài da: Trứng cá, hồng ban đa dạng hoặc hội chứng StevensJohnson, sẩn lichen, viêm da ánh sáng, nổi mày đay. Huyết học: Mất bạch cầu đa nhân, thiếu máu tan huyết, tăng bạch cầu, sưng hạch. Tim mạch: Rối loạn nhịp tim, bệnh cơ tim, hạ huyết áp, thuyên tắc tĩnh mạch. Tiêu hóa: Vàng da, táo bón, tổn thương tế bào gan. Thận – tiết niệu: Rối loạn chức năng bàng quang. Thần kinh: Rối loạn ngoại tháp, nhức đầu, co giật, loạng choạng. Mắt: Nhìn mờ, viêm thần kinh thị giác, bệnh võng mạc. Trên các người bệnh đang được điều trị có thể gặp một hoặc nhiều biểu hiện khác nhau nói trên nhưng có hai nhóm bệnh cảnh cần được đặc biệt quan tâm là các biểu hiện ngoại tháp và hội chứng ác tính thuốc an thần kinh. DS PHẠM VĂN VOI |