CÁC PHÒNG CÁC KHOA
Liên kết |
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CÁC THUỐC TRỊ VIÊM LOÉT DẠ DÀY, TÁ TRÀNG TRONG ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC CÁI NƯỚC NĂM 201510:23:00 01/09/2016
Viêm loét dạ dày, tá tràng là một bệnh mãn tính, dễ tái phát và có nhiều biến chứng nghiêm trọng như xuất huyết tiêu hoá, thủng dạ dày, ung thư dạ dày. Ba nhóm thuốc: ức chế bơm proton (PPI: proton pump inhibitors), nhóm Antacid và các thuốc kháng thụ thể H2, là những thuốc thường dùng. Để xác định tỷ lệ từng nhóm thuốc trong điều trị, cũng như một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng thuốc điều trị VLDDTT, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này, bằng phương pháp hồi cứu cắt ngang, với cỡ mẫu 600 bệnh án điều trị nội trú tại Bệnh Viện ĐKKV Cái Nước năm 2015, cho thấy kết quả như sau: Tỷ lệ sử dụng các thuốc điều trị viêm loét dạ dầy tá tràng: Tiền sử bệnh nhân có bệnh lý về dạ dày tá tràng chiếm tỷ lệ 32,2; Tỷ lệ bệnh nhân được điều trị bằng thuốc trị viêm loét dạ dày tá tràng tập trung nhiều nhất là tại Khoa Nội (45,2%). Tỷ lệ các lý do sử dụng nhóm thuốc trị viêm loét dạ dày tá tràng: Mục đích điều trị là 33%; Dự phòng là 44,5%; Chỉ định khác là 22,5%. Tỷ lệ các nhóm thuốc trị VLDDTT được sử dụng: Nhóm Antacid là 9,7%; Nhóm Kháng H2 là 4,2%; Nhóm PPIs là 86,1%. Một số yếu tố liên quan: Có mối liên quan giữa điều trị bệnh Xuất huyết tiêu hóa với nhóm thuốc antacid; Có mối liên quan giữa điều trị bệnh Viêm loét dạ dày – tá tràng với nhóm antacid và Kháng H2; Có mối liên quan giữa mục đích điều trị với nhóm Antacid và kháng H2, Có mối liên quan giữa tiền sử bệnh nhân có mắc các bệnh về dạ dày với việc sử dụng nhóm kháng H2, Antacid. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm loét dạ dày, tá tràng là bệnh có tần suất mắc cao trên thế giới, ảnh hưởng tới 5-10% dân số thế giới[2]. Hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, việc áp dụng các phương pháp chẩn đoán hiện đại trong y học ngày càng phổ biến và sự ra đời của các thuốc trị VLDDTT, đặc biệt là sự phát hiện ra vai trò gây bệnh của Helicobacter pylori đã hình thành một phương hướng điều trị mới. Từ một bệnh chủ yếu điều trị bằng ngoại khoa, đã trở thành một bệnh chủ yếu điều trị bằng nội khoa[5]. Tiêu biểu trong các nhóm thuốc trị viêm VLDDTT là 03 nhóm: ức chế bơm proton (PPI), nhóm Antacid và các thuốc kháng thụ thể H2. Vấn đề sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả, tránh lạm dụng được quan tâm hàng đầu; tuy nhiên trong những năm gần đây, tỷ lệ sử dụng các thuốc trị viêm loét dạ dày, tá tràng có khuynh hướng tăng theo từng năm. Năm 2013 tỷ lệ sử dụng các thuốc trị viêm loét dạ dày, tá tràng là 11,59%[1], trong khi đó theo số liệu thống kê tiền thuốc sử dụng nội trú năm 2014 tại Bệnh Viện ĐKKV Cái Nước, tổng tiền thuốc điều trị viêm loét dạ dày sử dụng chiếm tỷ lệ 18,68% tổng tiền thuốc sử dụng trong nội trú[1]. Xuất phát từ yếu tố trên chúng tôi tiến hành khảo sát tình hình sử dụng các thuốc trị viêm loét dạ dày, tá tràng trong điều trị nội trú tại bệnh viện đa khoa khu vực Cái Nước năm 2015” với 2 mục tiêu sau: - Xác định tỷ lệ sử dụng các thuốc trị viêm loét dạ dày, tá tràng trong điều trị nội trú tại bệnh viện đa khu vực Cái Nước năm 2015. - Tìm hiểu các yếu tố liên quan đến việc lựa chọn sử dụng các thuốc trị viêm loét dạ dày, tá tràng tại các khoa lâm sàng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu: Các bệnh nhân có sử dụng các thuốc trị VLDDTT điều trị nội trú tại Bệnh viện ĐKKV Cái Nước. Mô tả cắt ngang. Kỹ thuật chọn mẫu: - Chọn tổng số 600 mẫu nghiên cứu. - Áp dụng kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống 3. Xử lý số liệu: Sau khi thu thập thông tin, cán bộ nghiên cứu tập hợp tất cả các phiếu thu thập và thống kê theo từng nội dung của phiếu thu thập đề cập đến. Xử lý dữ kiện bằng phần mềm thống kê SPSS 18.0. III. KẾT QỦA NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Bảng 3.1 Giới tính của bệnh nhân:
* Nhận xét: Nam giới chiếm tỷ lệ 56,7% cao hơn so với nữ giới là 43,3%. Lê Trung Thọ tỷ lệ nam là 52,3%, nữ là 47,7%[4]. Trần Thiện Trung, Nguyễn Thị Phụng: nam/nữ = 2/1[3],[5]. Biều đồ 3.1 Tiền sử mắc bệnh về dạ dày – tá tràng: * Nhận xét: Tiền sử có viêm loét dạ dày: 32,2%, Không mắc bệnh: 67,8%, nhiễm HP: 0%. Lê Trung Thọ: tỷ lệ nhiễm HP là 47 %[4]. L.Sacco, Milan, Ý : tiền sử có viêm loét DD là 39,6%[6].
Bảng 3.2 Tỷ lệ các lý do sử dụng nhóm thuốc trị VLDDTT
* Nhận xét: Phòng ngừa loét DD: 30,2%, Viêm loét DD: 27%, chỉ định khác: 22,5% Dự phòng: 44,5%, điều trị: 33%
Bảng 3.3 Tỷ lệ các nhóm thuốc trị VLDDTT được sử dụng
*Nhận xét: - Tỷ lệ PPIs là 86,1% - Tỷ lệ kháng H2 là 4,2% - Tỷ lệ Antacid là 9,7%
Bảng 3.4 Tỷ lệ sử dụng các thuốc trong nhóm PPIs
*Nhận xét: Đối với dạng thuốc PPIs dùng đường uống thì Omeprazol chiếm tỷ lệ cao nhất 87,9%. Còn đối với dạng thuốc tiêm Esomeprazol chiếm tỷ lệ cao nhất 57,7%. Pantoprazol có tỷ lệ sử dụng thấp nhất ở cả dạng dùng uống và dạng dùng tiêm. 2. CÁC YẾU TỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN SỬ DỤNG CÁC THUỐC TRỊ VLDDLT: Bảng 3.5 Mối liên quan giữa điều trị bệnh Xuất huyết tiêu hóa với từng nhóm thuốc * Nhận xét:Tỷ lệ bệnh nhân sử dụng nhóm antacid là 15,6%, không sử dụng nhóm antacid trong trường hợp XHTH 4,9%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
Bảng 3.6 Mối liên quan giữa bệnh VLDDTT với từng nhóm thuốc trị VLDDTT
Bảng 3.7 Mối liên quan giữa mục đích điều trị với từng nhóm thuốc trị VLDDTT * Nhận xét:- Tỷ lệ bệnh nhân sử dụng nhóm antacid là 71,9%, không sử dụng nhóm antacid là 28,4%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,001). - Tỷ lệ bệnh nhân sử dụng nhóm kháng H2 là 71,4%, không sử dụng nhóm kháng H2 là 31,1%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,001).
Bảng 3.8 Mối liên quan giữa viêc sử dụng nhóm thuốc trị VLDDTT với tiền sử từng mắc các bệnh về đường tiêu hóa * Nhận xét:- Tỷ lệ bệnh nhân sử dụng nhóm antacid là 75%, không sử dụng nhóm antacid là 27,1%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,001). - Tỷ lệ bệnh nhân sử dụng nhóm kháng H2 là 64,3%, không sử dụng nhóm kháng H2 là 30,6%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,001).
Bảng 3.9 Mối liên quan giữa việc sử dụng nhóm thuốc PPIs với bệnh nhân có thẻ bảo hiểm y tế * Nhận xét:- Dạng uống: tỷ lệ sử dụng cho bệnh nhân có thẻ bảo hiểm y tế là 80,7% cao hơn không thẻ bảo hiểm y tế là 68,4%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,05). - Dạng tiêm: tỷ lệ sử dụng cho bệnh nhân có thẻ bảo hiểm y tế là 65,5% thấp hơn không thẻ bảo hiểm y tế là 89,8%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
KẾT LUẬN 1. TỶ LỆ SỬ DỤNG CÁC THUỐC TRỊ VIÊM LOÉT DẠ DÀY TÁ TRÀNG - Tỷ lệ các nhóm thuốc trị viêm loét dạ dày tá tràng được sử dụng: Nhóm Antacid là 9,7%, nhóm Kháng H2 là 4,2% và nhóm PPIs là 86,1%. - Đối với dạng thuốc PPIs dùng đường uống thì Omeprazol chiếm tỷ lệ cao nhất 87,9%. Còn đối với dạng thuốc tiêm Esomeprazol chiếm tỷ lệ cao nhất 57,7%. 2. CÁC YẾU TỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG CÁC THUỐC TRỊ VIÊM LOÉT DẠ DÀY TÁ TRÀNG: - Có mối liên quan giữa điều trị bệnh Xuất huyết tiêu hóa với nhóm thuốc antacid. - Có mối liên quan giữa điều trị bệnh Viêm loét dạ dày – tá tràng với nhóm antacid và Kháng H2. - Có mối liên quan giữa mục đích điều trị với nhóm Antacid và kháng H2 - Có mối liên quan giữa tiền sử bệnh nhân có mắc các bệnh về dạ dày với việc sử dụng nhóm kháng H2, Antacid. - Có mối liên quan giữa việc sử dụng nhóm thuốc PPIs đối với bệnh nhân có thẻ bảo hiểm y tế. KIẾN NGHỊ Qua kết quả khảo sát tình hình sử dụng thuốc điều trị bệnh viêm loét dạ dày tá tràng trong điều trị nội trú tại BVĐKKV Cái Nước trong năm 2015, cho thấy tình hình sử dụng nhóm thuốc điều trị viêm loét dạ dày tá tràng chưa được hợp lý, hiệu quả. Để giải quyết vấn đề trên, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị như sau: - Hội đồng thuốc và điều trị tăng cường công tác kiểm tra giám sát trong việc lựa chọn thuốc, công tác bình bệnh án đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, hiệu quả. - Nâng cao vai trò của Dược sỹ lâm sàng trong việc lựa chọn thuốc sử dụng, ưu tiên lựa chọn thuốc có chất lượng, giá cả phù hợp đáp ứng tốt nhu cầu điều trị. - Chú trọng khai thác bệnh sử của bệnh nhân, tránh dùng thuốc ảnh hưởng đến đường tiêu hóa đối với bệnh nhân có tiền sử mắc bệnh dạ dày – tá tràng. - Chỉ sử dụng các thuốc PPIs dạng tiêm trong trường hợp điều trị viêm loét dạ dày tá tràng có biến chứng hoặc bệnh nhân không dùng đường uống được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bệnh viện đa khoa khu vực Cái Nước (2013;2014), Báo cáo tổng kết dược năm 2014 của bệnh viện đa khoa khu vực Cái Nước. 2. Phạm Thị Thu Hồ (2009), Bệnh học Nội khoa Tập I (Bài giảng dành cho đối tượng sau đại học), Trường Đại học Y Hà nội, trang 16-18. 3.Nguyễn Thị Phụng (2002), Tình hình nhiễm H.p trên bệnh nhân viêm loét dạ dày tá tràng và bước đầu đánh giá tình hình kháng kháng sinh của vi khuẩn, Tạp chí y học Việt nam. 4. Lê Trung Thọ, Trần Văn Hợp (2007), Nghiên cứu mô bệnh học và tỷ lệ nhiễm HP ở bệnh nhân viêm dạ dày mạn tính, Tạp chi y học tập 11 số 3. 5.Trần Thiện Trung (2008), Bệnh dạ dày-tá tràng và nhiễm Helicobacter pylori, Nhà xuất bản Y học, chi nhánh TP. Hồ Chí Minh. 6. Parente F, Cucino C, Gallus S, Bargiggia S, Greco S, Pastore L, Bianchi Porro G (2003), “Hospital use of acid-suppressive medications and its fall-out on prescribing in general practice: a 1-month survey”, Aliment Pharmacol Ther. 2003 Jun 15;17(12):1503-6. DSCKI Trịnh Thị Nhiên |