DANH MỤC GIÁ DỊCH VỤ KỸ THUẬT TẠI CƠ SỞ KCB

16:11:00 26/10/2015

KCBCó rất nhiều xét nghiệm liên quan đến gan giúp theo dõi, chẩn đoán và điều trị. Các xét nghiệm về gan có thể chia thành nhóm 03 nhóm sau:

-  Nhóm khảo sát chức năng bài tiết và khử độc.

- Nhóm khảo sát chức năng tổng hợp.

- Nhóm đánh giá tình trạng hoại tử tế bào gan.

Bài viết này chỉ nêu một số nét cơ bản về biện luận kết quả xét nghiệm về gan thực hiện tại bệnh viện.

1. AST, ALT (Aspartate aminotransferase, Alanine aminotransferase)

ALT và AST là hai loại enzyme được tìm thấy chủ yếu ở các tế bào của gan và thận, một lượng nhỏ hơn của nó cũng được tìm thấy trong cơ tim và cơ bắp. Tuy nhiên ALT đặc hiệu cho gan hơn AST. Hai enzyme này tăng khi có sự hủy hoại tế bào gan.

Một điều lưu ý là ALT có nhiều trong bào tương, còn AST có nhiều trong ty thể, điều này rất quan trọng trong thực hành lâm sàng. Và trong biện luận nên thiết lập các tỷ số giữa ALT và AST.

(i)  : Tăng ALT chiếm ưu thế hơn AST nghĩa là bệnh nhân mắc các bệnh liên quan đến vỡ thế bào gan như viêm gan siêu vi, viêm gan do thuốc, viêm gan tự miễn…Nếu kết hợp men gan tăng cao hơn 05 lần bình thường, bệnh nhân nằm trong giai đoạn viêm gan cấp. Nếu kết hợp tăng men gan dưới 5 lần thường là bệnh nhân trong giai đoạn viêm gan mạn. Trong quá trình diễn tiến nếu đảo ngược lại tỷ số  có thể bệnh nhân nằm trong giai đoạn xơ gan hay ung thư gan.

(ii)  Tăng AST chiếm ưu thế, nghĩa là bệnh nhân mắc các bệnh liên quan đến tổn thương ty thể thường gặp nhất là viêm gan do rượu.

2. GGT và ALP (Gamma-glutamyl Transferase, Alkaline phosphatase)

          Hai enzyme này có mặt ở nhiều mô trong cơ thể nhưng chủ yếu là tế bào biểu mô đường mật, nên khi tổn thương tế bào biểu mô đường mật như khối u hoặc sỏi cả 02 GGT và ALP đều tăng. Khi có viêm gan tế bào biểu mô đường mật cũng có thể bị tổn thương nên cả hai enzyme trên cũng có thể tăng. Tuy nhiên theo Viện Hàn lâm Quốc gia và Hiệp hội hóa sinh lâm sàng Mỹ đề nghị sử dụng ALP đặc hiệu hơn GGT.

Bởi gì GGTcó liên quan đến enzyme P450, nên những người uống rượu thường xuyên hệ thống enzyme này gia tăng hoạt động để chuyển hóa rượu. Hậu quả là GGT tăng. Những người nghiện rượu có đến 3/4 trường hợp có GGT tăng.

 ALP còn có nhiều trong mô xương nên khi có sự hủy hoại mô xương như ung thư xương ALP sẽ tăng.

3. Bilirubin:

Bilirubin là sản phẩm  chuyển hóa nhân heme của tế bào hồng cầu. Đây là xét nghiệm thường gặp và quan trọng trong biện luận lâm sàng hội chứng vàng da. Khi biện luận không nhìn vào giá trị tuyệt đối của bilirubin trực tiếp (tan trong nước), bilirubin gián tiếp (tan trong mỡ) hay bilirubin toàn phần mà dựa vào sự liên hệ giữa bilirubin trực tiếp và bilirubin toàn phần.

  

 Bởi vì  nên tỷ lệ trên <20% nghĩa là do bilirubin gián tiếp tăng ưu thế đều này chỉ điểm do các nguyên nhân gây vàng da trước gan.

  •  

Chứng tỏ bilirubin trực tiếp tăng ưu thế nên chỉ điểm các nguyên nhân vàng da sau gan. Chúng ta biết vàng da sau gan nghĩa là có trình trạng tắt mật như sỏi ống mật chủ hoặc ung thư, ung thư đầu tụy…bilirubin trực tiếp sau khi được chuyển hóa tại gan không thể xuống ruột để tiếp tục chuyển hóa thành urobilinogen. Hậu quả là bilirubin trực tiếp tràn vào máu gây hiện tượng vàng da và xét nghiệm có nồng độ cao.

  •  

Trường này gọi là tăng bilirubin hỗn hợp chỉ điểm cho các nguyên nhân gây vàng da tại gan.

BS: Bùi Văn Dủ